Osborne, laptop đầu tiên, ra đời năm 1981. Ảnh: Oldcomputers. |
Năm 1981, chiếc laptop đầu tiên ra đời với hình dáng một chiếc vali lớn nặng hơn 9 kg. Sản phẩm được đặt tên là Osborne 1.
Được nhà sáng chế người Mỹ Adam Osborne chế tạo vào năm 1981, Osborne 1 vô cùng “giản dị” với vi xử lý Zilog Z80 4 MHz, “tằn tiện” với bộ nhớ RAM tích hợp 64 KB, cùng hai đĩa mềm 5,25 inch và màn hình đen trắng có độ phân giải 52 x 24 pixel.
Compaq LTE, năm 1989, đánh dấu sự "lột xác" đầu tiên của laptop. Ảnh: Businessweek. |
Năm 1989 đánh dấu sự "lột xác" đầu tiên của laptop. Compaq LTE bắt đầu mang dáng dấp của những chiếc laptop hiện đại, nhỏ gọn hơn nhiều so với Osborne 1. Nó có trọng lượng chỉ hơn 3 kg một chút và có thiết kế không khác mấy so với những mẫu laptop hiện tại và khác xa với “gã khổng lồ thô kệch” mà “tằn tiện” Osborne 1.
Compaq LTE sở hữu bộ vi xử lý Intel 8086 xung nhịp 9,55 MHz, bộ nhớ RAM 640 KB và ổ đĩa cứng 20 MB. Máy có màn hình đen trắng hiển thị tốt với độ phân giải 640 x 200 pixel.
ThinkPad series 700 (1992), laptop có trackpad đầu tiên. Ảnh: Businessweek. |
Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của dòng ThinkPad với series 700 với phím điều khiển con trỏ, nay gọi là trackpad. Đây chính là hình mẫu sơ khai của những chiếc laptop doanh nhân Lenovo IBM ThinkPad nổi tiếng hiện nay.
Trackpad hay còn gọi là pointing stick trên series 700 giúp người sử dụng di chuyển con trỏ một cách chính xác. Máy sử dụng chính vi xử lý IBM 486 SLC 25 MHz, RAM 4 MB. Ổ cứng 80 MB hoặc 120 MB, cùng màn hình màu có độ lớn 9,5 inch độ phân giải 640 x 480 pixel.
Apple PowerBook series 500 (1993) mẫu hoàn chỉnh của laptop hiện đại. Ảnh: Media. |
Apple PowerBook series 500 ra đời năm 1993 chính là hình mẫu hoàn chỉnh của laptop hiện đại. Đây là laptop đầu tiên có touchpad, hệ thống xử lý âm thanh 16-bit, hệ thống loa stereo và rất nhiều điều mới mẻ khác đã trở thành phổ thông trong laptop hiện đại.
5 máy trong dòng PowerBook series 500 của Apple đều có bộ nhớ RAM 4 MB, nhiều lựa chọn về màn hình với độ lớn từ 9,5 đến 10,4 inch, cùng độ phân giải 640 x 400 pixel, vi xử lý xung nhịp từ 25 đến 33 MHz và ổ đĩa cứng HDD dung lượng mở rộng từ 160 đến 75 0MB.
HP Jornada 820 (1998) ý tưởng netbook đầu tiên. Ảnh: Zdnet. |
HP Jornada 820 ra đời năm 1998 là mẫu laptop đầu tiên thể hiện ý tưởng netbook - loại laptop mini đang rất được ưa chuộng.
HP Jornada 820 chạy hệ điều hành Windows CE và cũng có touchpad. Máy sở hữu màn hình độ phân giải 640 x 480 pixel, vi xử lý Intel StrongARM 190 MHz, RAM 16 MB. Cũng giống như netbook hiện tại, HP Jornada 800 có thời lượng dùng pin tốt, từ 4 đến 5 giờ liên tục. Điểm đặc biệt của HP Jornada 800 là máy luôn trong trạng thái “On” vì hệ điều hành được lưu trên bộ nhớ ROM.
Acer Travelmate C100 (2000) là máy tính bảng màn hình xoay đầu tiên. Ảnh: Mindwarecorp. |
Acer Travelmate C100 ra mắt năm 2000 là máy tính bảng màn hình xoay đầu tiên. Nó được trang bị màn hình 10,4 inch, độ phân giải 1.024 x 768 pixel có thể xoay chỉnh ở các góc độ mong muốn và rất "chuyên nghiệp" - có thể gập ngang ngay trên bề mặt bàn phím, phục vụ việc ghi chép một cách thuận tiện.
TravelMate C100 có trọng lượng gần 1,5 kg, sử dụng vi xử lý Intel Pentium 3 900 MHz, bộ nhớ RAM 512 MB và ổ cứng HDD dung lượng 40 GB.
HP Pavilion dv2000 (2006) mở đầu cho xu hướng laptop thời trang. Ảnh: Raovatmienphi. |
HP Pavilion dv2000 series (2006) mở đầu cho thời kỳ laptop song hành cùng thời trang. Dòng máy này có thiết kế đẹp, vỏ máy đen bóng - màu đen nghệ thuật của những chiếc đàn piano, sử dụng công nghệ sơn phủ bề mặt độc đáo HP Imprint với những họa tiết lượn sóng hay hình rồng tinh tế. Sự trau chuốt trong thiết kế của HP đã ảnh hưởng tới các hãng khác như Dell và Gateway, hai hãng này thời gian sau đó, đã rất nỗ lực trong việc cải thiện hình ảnh sản phẩm của mình nhằm đưa ra thị trường những mẫu máy đẹp và ưa nhìn hơn.
Asus Eee PC 701 (2007) là mẫu netbook đầu tiên. Ảnh: Geardiary. |
Asus Eee PC 701 xuất hiện trên thị trường năm 2007 đánh dấu một xu thế phát triển mới của thị trường laptop và ngành công nghiệp PC. Sản phẩm này tiên phong cho trào lưu laptop mini hay còn gọi là netbook.
Eee PC 701 có màn hình 7 inch, độ phân giải 800 x 480 pixel, RAM 512 MB, ổ cứng thể rắn 4 GB, thiết kế nhỏ gọn, nặng chưa đầy 1 kg. Nhược điểm của nó, cũng như là đặc tính cố hữu của các netbook sau này, là bàn phím chật hẹp và màn hình nhỏ. Để xem nội dung các trang web, bạn phải cuộn ngang chiều rộng màn hình để xem đầy đủ. Song với mức giá 399 USD, sản phẩm này đã khuấy động thị trường laptop giá rẻ và khiến các hãng sản xuất laptop khác như Acer, MSI, HP, Lenovo, Dell, và cả Samsung không thể đứng ngoài cuộc chơi.
Apple MacBook Air (2008) khiến thị trường phải định nghĩa lại laptop siêu di động. Ảnh: SMH. |
Apple MacBook Air (2008) khiến thị trường phải “định nghĩa lại” thế nào là laptop siêu di dộng. Cho dù Dell Adamo hay HP Voodoo Envy 133 có được coi là siêu phẩm, là tuyệt tác của laptop siêu di động thì danh hiệu laptop mỏng, nhẹ đầu tiên thế giới vẫn thuộc về Apple MacBook Air.
Chiếc máy này đã phải đánh đổi một số cổng kết nối thiết bị ngoại vi để có thân máy "mảnh dẻ" và trọng lượng siêu nhẹ, khoảng 1,4 kg. Song tính cơ động cao của máy và sự chuyên nghiệp trong xử lý lại được đánh giá cao, với cấu hình gồm vi xử lý Intel Core 2 Duo, RAM 2 GB, và ổ cứng 80 GB.
Nguyễn Nguyên tổng hợp