Đối với người tiêu dùng Mỹ, Honda không chỉ nổi tiếng với ô tô, xe máy và còn các sản phẩm khác như máy phát, máy cắt cỏ - Honda là nhà sản xuất động cơ lớn nhất thế giới. Nhà sản xuất này đã tạo ra những sản phẩm tốt với mức giá phải chăng, đó là một trong những ưu thế lớn nhất. Không cầu kỳ, bóng bẩy về kiểu dáng, Honda luôn luôn đem lại cho sản phẩm của mình sự giản dị, nhưng hiệu quả và gần như không có chi tiết thừa.Có lẽ Honda sẽ vẫn chỉ là một nhà sản xuất nhỏ chuyên cung cấp xéc-măng cho Toyota nếu ông Honda tiếp tục kinh doanh theo truyền thống Nhật Bản và theo định hướng của Bộ Công thương Nhật.
John Mendel, phó tổng giám đốc điều hành khối kinh doanh ô tô của Honda Mỹ đã nói: “Khi bạn nhìn vào cái cách mà Honda ra đời, bạn chắc hẳn không tin nổi công ty sẽ đặt chân vào ngành kinh doanh xe máy, và cả ô tô sau này. Tuy nhiên, Honda đã chứng minh được điều ngược lại.”
Là con trai của một người thợ rèn, Soichiro Honda lớn lên tiếp nối nghề nghiệp của bố. Năm 15 tuổi, Soichiro Honda bỏ học để lên Tokyo học nghề tại xưởng cơ khí ôtô Shokai.
Giây phút huy hoàng khi được ngồi bên ông chủ trên chiếc xe đua chạy với tốc độ 160 km/giờ là giây phút cậu Honda 17 tuổi thắp lửa niềm đam mê cùng tốc độ mãi cho tới sau này. Tham vọng của cậu không chỉ dừng lại ở vị trí học việc, 4 năm sau, Honda đã mở xưởng sản xuất của riêng mình, và là tiền đề cho tập đoàn ô tô – xe máy Honda đình đám ngày nay.
Năm 1928, Honda mở gara riêng tại Hamamats. Về giai đoạn khởi nghiệp này, năm 1964, khi trả lời phỏng vấn tờ Newsweek, Honda nói: "gara tôi nổi tiếng với các buổi tiệc tùng geisha và các ban nhạc trẻ".
Ngoài tiệc tùng, Honda cũng dành niềm đam mê với đua xe. Ông đã sử dụng động cơ máy bay Curtiss-Wright V-8 kết hợp với khung của một chiếc ô tô, với hi vọng tạo nên kỷ lục tốc độ của Nhật Bản. Trong một lần đua, ông đã gặp tai nạn vào năm 1936. Sau vụ việc này, Honda dành phải hứa với vợ mình rằng sẽ chấm dứt đua xe và tập trung vào công việc kinh doanh.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Soichiro, với con mắt của một nhà sáng chế, đã mua lại 500 động cơ cũ từ quân đội Nhật, và chỉ sau một thời gian ngắn, những chiếc xe đạp trang bị động cơ nhỏ gọn đã ra đời trong một nhà kho bằng gỗ rộng 24 mét vuông, xưởng sản xuất của “doanh nghiệp một thành viên” mà ông vừa là chủ, vừa là người nghiên cứu, vừa là thợ và cũng là người bán xe. Sau một thời gian mọi người phát hiện ra loại xe đạp kỳ lạ này đã len lỏi khắp các ngõ ngách ở Nhật Bản. Honda Technical Research Institute của ông đã thành công và không ngừng phát triển. Đến năm 1948, Công ty Honda Motor Co. Ltd được thành lập và trở thành một tập đoàn số 1 thế giới về sản xuất xe máy.
Một sản phẩm quan trọng là Soichiro Honda đã thiết kế thành công loại xe Honda “Dream D” - kiểu xe hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ. Khung xe được thiết kế có đủ độ cong cần thiết và đủ độ cứng để tải được loại động cơ 98 phân khối. Honda “Dream D” vượt trội hơn các loại xe khác ở rất nhiều yếu tố kỹ thuật. Sau đó, ông tiếp tục cải tiến và ra mắt Dream E máy khoẻ, chạy êm, không chảy dầu.
Công ty Honda đã thu được kết quả ngoài mong đợi với loại xe Cub, cho phép khách hàng lựa chọn mua máy xe để lắp vào xe đạp hoặc mua trọn một chiếc xe gắn máy. Chỉ trong vòng chưa được 1 năm, công ty bán được 6.500 chiếc Cub mỗi tháng, chiếm 70% thị phần xe gắn máy tại Nhật.
Không dừng lại ở đó, năm 1959 Honda bắt đầu bành trướng ra thị trường Mỹ. Biết rằng thị trường nội địa Nhật Bản quá chật hẹp, Honda đã mạnh dạn chuyển hướng sang một thử thách lớn hơn: xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Tại mảnh đất mà những chiếc xe huyền thoại đang chiếm cứ như Harley-Davidsons, các mẫu xe Anh Quốc đình đám như Triumph và Norton, các ông lớn từ Ý như Moto Guzzi và Ducati, Honda muốn thay đổi “khẩu vị” của người dân Mỹ bằng các mẫu xe nhỏ, khiêm nhường nhưng hiệu quả của mình.
Lựa chọn phân khúc xe nhỏ là nước cờ khôn ngoan của Honda, bởi hãng không thể cạnh tranh với các nhà sản xuất xe Mỹ hay Anh với mẫu Dream hay Benly của mình. Nếu coi Super Cub là con tốt nhỏ, nó chính là con tốt thành công.
Vậy là mẫu xe sử dụng động cơ 4 kỳ nhỏ gọn, 49cc, công suất chỉ 4,5 mã lực và vóc dáng “tí hon” cùng slogan rất tuyệt “bạn gặp những người bạn dễ thương nhất trên chiếc Honda” đã làm thay đổi quan niệm tiêu dùng của người Mỹ. Năm 1964, khi Hondells tung ra bài hát nổi tiếng “chiếc Honda nhỏ xinh” (Little Honda) Honda 50 đã trở thành biểu tượng . Năm 1963, Công ty Honda bán được 7.800 chiếc, năm 1984 bán hơn 10 triệu chiếc Honda 50 phân khối tại Mỹ, con số mơ ước của bất kỳ hãng sản xuất xe máy nào thời bấy giờ.
Thành công với xe máy, Honda nhắm tới công nghệ cao hơn: sản xuất ô tô. Hãng chủ trương phát triển những mẫu xe thể thao cỡ nhỏ và tiếp cận công nghệ sản xuất xe đua công thức 1, mặc dù chưa hề có kinh nghiệm sản xuất xe đua.
Sau khi đã chiếm lĩnh thị trường xe máy, Honda bắt đầu sản xuất ô tô. Cảm giác về tốc độ vẫn còn mới nguyên trong lồng ngực như thuở cậu thiếu niên 17 tuổi ngày nào, Honda quyết định dấn thân trên đường đua để làm bàn đạp cho kinh doanh thương mại. Honda tung ra kiểu xe thể thao S360. Năm 1959, đội Honda giành giải nhất trong cuộc đua Isle of Man (Anh) khi lần đầu dự giải. Thành công trên đường đua nhanh chóng giúp tăng doanh số: Honda dẫn đầu ở Nhật với 285.000 chiếc. Hai năm sau, Honda bán được 100.000 chiếc mỗi tháng.
Honda tham gia vào cuộc đua xe công thức 1 vào đầu thập niên 1960. Đến năm 1965, đội Honda đoạt giải nhất trong cuộc đua Giải thưởng Lớn Mexico, và năm tiếp theo lại giành tiếp những giải thưởng lớn trong cuộc đua F2. Cũng giống như xe máy, sau các giải thưởng này, ô tô Honda bắt đầu chinh phục thị trường xe ô tô thế giới.
Năm 1980, Honda đã trở thành niềm tự hào mới của nước Nhật. Năm 1984, Honda bước vào phân khúc xe sang với thương hiệu Acura. Thời điểm Soichiro Honda mất vào năm 1991, Accord là mẫu xe bán chạy nhất tại Mỹ, và Acura NSX được tạp chí Motor Trend đánh giá : “mẫu xe thể thao tốt nhất từng được sản xuất trên thế giới. Bất cứ khi nào. Bất cứ đâu. Với bất kỳ mức giá nào.”
Cuối thế kỷ 20, Honda là nhà sản xuất ô tô xe máy số một thế giới.
Những sản phẩm của Honda có thể không bao giờ được vinh danh tại những lễ hội quý tộc hội tụ những siêu xe, nhưng nó đã trở thành thương hiệu đồng hành của cuộc sống thường nhật. Trở thành người bạn của mọi nhà chẳng phải là ước muốn của bất kỳ nhà sản xuất nào hay sao.
1964-66 S600 (12.200 – 17.100 USD)
Những chiếc xe này chưa bao giờ được xuất khẩu sang Mỹ. Nhỏ, gọn và cổ điển, đây là những chiếc ô tô đầu tiên do Honda sản xuất. Chiếc S500 sử dụng động cơ 531 cc, công suất 44 mã lực. Chiếc S600 có công suất 606cc và công suất 57 mã lực.
1984-91 Honda CRX
Chiếc xe Honda CRX thế hệ đầu tiên (1984-87) đơn giản và nhẹ hơn, trong khi thế hệ thứ 2 (1988-91) cao cấp hơn và nặng hơn. Mẫu Si có khả năng vận hành tốt nhất, nhưng ít mẫu tiết kiệm nhiên liệu.
1997-98 Acura Integra (11.000 – 17.500 USD)
Động cơ sử dụng trên xe là loại 1.8L VTEC của Integra Type R có công suất 195 mã lực. Mẫu Integra là mẫu xe dẫn động cầu trước vận hành tốt nhất thời bấy giờ.
1991-2005 Acura NSX (30.000 – 70.000 USD)
Mẫu xe NSX 2 chỗ này sử dụng kết cấu khung nhôm toàn bộ, động cơ đặt giữa, với động cơ V6 là chiếc xe có khả năng cân bằng tốt, thiết kế đẹp mắt và có tính thực tế cao. Đây được coi là chiếc xe có thể viết lại luật lệ cho các mẫu xe thể thao. Chính với mẫu xe này, Honda đã buộc Ferrari phải đầu tư thiết kế các mẫu xe tốt hơn nữa để cạnh tranh.
1959-70 Honda Cub (1000 – 3000 USD)
Honda 50, hay còn còn là Super Cub, là mẫu xe máy bán chạy nhất mọi thời đại, và là chuẩn mực của thiết kế hiệu quả. Honda đã dừng xuất mẫu xe này vào thị trường Mỹ từ năm 1970, nhưng hãng vẫn còn sản xuất mẫu xe này, với nhiều dạng cải tiến, cho đến ngày hôm nay.
1973-77 CR250M Elsinore (1000 – 5000 USD)
Đây là mẫu xe máy offroad được sản xuất số lượng lớn có mục đích rõ ràng đầu tiên trên thế giới. Rất ít xe còn lại cho đến ngày nay. Đây chính là “ông tổ” của những mẫu xe đua offroad Honda CR vô địch ngày nay.
1969-78 CB750 (1500 – 12.000 USD)
Mẫu xe gốc của Universal Japanese Motorcycle sử dụng động cơ 4 xylanh thẳng hàng, SOHC làm mát bằng khí và khởi động điện, một công nghệ khá hiếm hoi thời bấy giờ. Trong khi mẫu CB750 K0 là mẫu cổ điển đích thực, những mẫu CB750F 1975-78 thể thao hơn và được ưa chuộng hơn.
1978-82 CBX1000 (2000 – 12.000 USD)
“Quái thú” này sử dụng động cơ 6 xylanh thẳng hàng DOHC có công suất 105 mã lực. Những chiếc CBX đời đầu là chiếc xe máy tiêu chuẩn, các mẫu 1981-82 được trang bị kính chắn gió, túi và giảm xóc sau loại đơn Pro-Link.
ST: Chemgio
Có thể bạn quan tâm: