Đứng cùng hơn 10 mẫu xe khác của honda trong Head, Blade khiến khách hàng không khỏi ngạc nhiên, bởi mang thiết kế lạ mắt. Thực tế hình dáng mẫu xe số không mới trên thị trường nhưng lại rất lạ với khách hàng của hãng xe Nhật. Blade mang phong cách "không Honda một chút nào".
Xu hướng thể thao hóa thiết kế được Honda thể hiện rõ trên chiếc RSX FI với đèn xi-nhan chạy dọc mặt trước, các đường cắt, xẻ mạch lạc, tuy nhiên vẫn còn đâu đó nét trung tính đậm chất Honda. Đến Blade, thì hình ảnh đó đã xóa bỏ, gần như "phủ định sạch trơn" truyền thống.
Từ bỏ kiểu yếm 3D gọn nhẹ nhưng hơi nhỏ, Blade quay về kiểu yếm rộng truyền thống. Tạo hình mảng miếng lồi lõm dứt khoát, mang lại hiệu quả khí động học và một vẻ ngoài thể thao. Để phân biệt với RSX FI, Blade giữ nguyên xi-nhan liền với đèn pha thành một cụm.
Sự gai góc, nam tính dễ nhận thấy nhất trên thân xe khi các nhà thiết kế tận dụng mọi khoảng không gian có thể để tạo đường gân và hình khối cơ bắp. Ở lứa sản phẩm đầu tiên bán ra thị trường, xe không sử dụng giá giữ đồ giữa thân xe cũng như móc treo đồ, nhìn xe bớt rườm rà, gọn gàng hơn, nhưng cũng là điểm bất tiện khi thói quen chở theo đồ hoặc treo túi đi chợ là nhu cầu hàng ngày.
Nếu Wave RSX FI là đối thủ trực tiếp của Sirius FI thì Blade 110 chính là kẻ so gươm với Sirius bản chế hòa khí. Khách hàng sẽ khó lựa chọn hơn, khi giờ đây cả hai mẫu xe của Honda và Yamaha đều có hình dáng tương đồng, công nghệ và tính năng cũng tương tự.
Kích thước tổng thể của Blade tương tự RSX, nhưng chiều dài cơ sở ngắn hơn, ở mức 1.217 mm, trong khi RSX là 1.227 mm. Bên cạnh đó, chiều cao yên Blade là 769 mm, cao hơn con số 760 mm của RSX. Chính nhờ thiết kế ngắn hơn, yên cao hơn và tay lái hơi cụp hơi mà Blade mang tới dáng ngồi cho cảm giác thể thao hơn, lao về phía trước so với RSX.
Tuy nhiên, so với đàn anh thì điểm trừ của Blade nằm ở cách tạo hình các chi tiết nhỏ như cụm đèn hậu, mặt đồng hồ không hiện đại và hơi bảo thủ kiểu thiết kế cũ. Mặt đồng hồ của Blade 110 thích hợp trên các xe quãng 2007-2008 hơn là hiện nay. Đây cũng là điểm yếu trong thiết kế của Sirius so với các dòng xe cao hơn như Jupiter.
Động cơ trên Blade là loại 4 thì xi-lanh đơn 109,1 phân khối làm mát bằng không khí, phun xăng nhờ chế hòa khí, công suất 9,1 mã lực tại vòng tua 7.500 vòng/phút và mô-men xoắn cực đại 8,65 Nm tại 5.500 vòng/phút. Những thông số này ngang ngửa đàn anh RSX FI.
Blade thể hiện mình không chỉ mới kiểu dáng, mà còn mới cả vận hành. Không như đàn anh RSX với tiếng ống xả "ình ịch", giòn nhưng hơi to so với chiếc xe phổ thông, cũng không giống như Wave S, RS lại êm ái đến kém hấp dẫn. Blade là kết hợp của cả hai, tiếng ống xả thoát ra giòn, rõ theo từng nhịp piston, nhưng quãng âm lượng vừa phải, đủ tiếp động lực cho người lái và cũng đủ êm nơi đông người.
Kiểu dáng đem tới dáng ngồi thể thao, thích hợp cho người từ 1,65 m trở lên. Khả năng tăng tốc ở mọi dải tốc độ khá ổn định, kể cả khi đi hai người. Nhờ hệ truyền động tinh chỉnh nên việc sang số gọn gàng, nhanh hơn những xe cũ, nhưng tiếng sang số hơi to và thô có thể khiến nhiều chủ nhân thấy phiền.
Cũng bởi định hướng thể thao mà tay ga bớt trễ hơn hẳn so với xe ga Vision. Blade gọn gàng, ổn định khi tăng tốc từ 40-60 km/h, tay lái hơi cụp cùng dáng ngồi lao trước sẽ mang tới cảm giác lạ lẫm cho những người đã quen xe Honda, nhất là khi qua những khúc cua, cần một khoảng thời gian làm quen.
Với sản phẩm mới, khách hàng mà các Head kỳ vọng là những người tiêu dùng phổ thông muốn tìm kiếm nét mới lạ, thể thao phá cách với cùng số tiền như trước. Blade ra đời sẽ thay thế cho dòng Wave S và RS hiện nay.
Honda bán Blade với 3 phiên bản gồm tiêu chuẩn, thời trang và thể thao với giá bán từ 18,1 triệu đến 20,6 triệu đồng.
Đức Huy