Nghị định 100/2019: Bỏ trốn sau khi gây tai nạn có thể bị phạt tù đến 10 năm.
Đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy. Tại điểm e, khoản 3 và điểm đ khoản 8 Điều 6 quy định: Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: Điều khiển xe có liên quan trực tiếp đến vụ tai nạn giao thông mà không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, không tham gia cấp cứu người bị nạn, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm đ khoản 8 Điều này;
Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn;
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn.
"Ngoài các biện pháp hành chính, người có hành vi gây tai nạn rồi bỏ trốn còn bị xử lý hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 nói rõ: người nào gây tai nạn giao thông rồi bỏ trốn để trốn tránh trách nhiệm sẽ bị phạt tù từ 03 đến 10 năm (đối với người trên 18 tuổi). Đối với người dưới 18 tuổi thì sẽ phải chịu 2/3 hoặc 1/2 mức phạt tương ứng. Như vậy, ngoài các mức phạt do hành vi gây tai nạn khi tham gia giao thông không đúng quy định, người gây tai nạn còn phải chịu phạt thêm do hành vi bỏ trốn của mình". Luật sư Bình cho biết thêm.
Có thể bạn quan tâm: