Không có định nghĩa chính xác thế nào gọi là một chiếc chopper, quan niệm có thể thay đổi giữa các vùng khác nhau. Nhưng tựu chung lại đó là chiếc xe tùy chỉnh, không có bất kỳ ràng buộc nào về kính chắn gió, gương, phanh trước hay đồng hồ tốc độ.
Lịch sử chopper bắt đầu sau Thế chiến II. Các cựu quân nhân muốn có những chiếc môtô giống như loại thấy hoặc được lái trong chiến tranh. Họ mua các loại xe khác về, độ lại. Rất nhiều người thích tháo chắn bùn trước. Chắn bùn sau cắt ngắn còn được gọi là “chắn bùn bobbers”.
Hongda Cub độ phong cách bobber. |
Sau này, những người dựng xe mạnh rạn tao ra nhiều thay đổi mạnh mẽ. Nhiều thứ được tháo khỏi khung, một số chi tiết như ống xả, bình xăng được hư cấu theo hướng lạ, độc. Khái niệm “chopper” xuất hiện khi người ta chia nhỏ xe để tạo ra sự mới mẻ.
Nhiều bộ phim như “The Wild One” hay “Ease Rider” dùng chopper để hút khán giả. Thập kỷ 60 và 70 chứng kiến sự ra đời của thế hệ chơi chopper mới. Những người sẵn sàng dành nhiều tuần, nhiều tháng để tạo ra chiếc xe hoàn hảo, thiết kế theo hướng tạo sự thoải mái, lâu mỏi, tốc độ hoặc mộc mạc.
Những năm 80, nhiều công ty xe máy trong đó có Harley-Davidson bắt đầu đưa vào sản xuất hàng loạt những mẫu thiết kế chopper được ưu chuộng. Điều này gần như tiêu diệt văn hóa chopper tự phát. Giữa thập niên 90, các cửa hàng độ chopper xuất hiện trở lại. Đến ngày nay, văn hóa chopper đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Bộ khung chopper có thể dựa trên khung xe truyền thống hoặc cruiser, nhưng phong cách rất đa dạng. Khác với việc ngồi trên một chiếc xe thể thao người lái phải gấp người nhoai về phía trước, chopper thường có vị trí ngồi thấp được đẩy lui về sau, tay lái kéo dài nhằm tạo sự thoải mái cho người điều khiển.
Có 2 kiểu khung thường trên chopper. Khung đuôi cứng và khung đuôi mềm. Khung đuôi cứng là kết cấu liền, không có hệ thống treo sau. Ngược lại khung đuôi mềm có hệ thống treo sau. Nó gồm 2 phần chính. Phần trước là nơi gá động cơ, hộp số, phuộc trước và tay lái. Phần sau lắp bánh sau. Hai phần liên kết với nhau bằng bu-lông hoặc nhờ một vài thiết bị khác.
Dù là khung đuôi cứng hay đuôi mềm thì chúng đều được gắn lên cụm càng trước gồm bánh, phuộc và tay lái.
Vespa độ dạng chopper |
Một trong những điểm tiên quyết khi dựng xe chopper là hai thông số góc choãi và vệt bánh. Góc choãi là góc hợp bởi đường tâm cổ trên khung và đường thẳng đứng. Góc choãi càng lớn bánh trước càng được đẩy ra xa khung.
Vệt bánh là khoảng cách từ vị trí tiếp xúc của lốp và mặt đường đến giao điểm của đường thẳng đứng và đường tâm cổ trên khung. Vệt bánh thường mang giá trị dương. Giá trị vệt bánh rất quan trọng, vệt quá gắn hoặc quá dài có thể làm xe phản ứng chậm hoặc khó kiểm soát. Có nhiều ý kiến khác nhau về khoảng cách lý tưởng, nhưng đa phần nó nằm trong khoảng 8,8 – 15,3 cm.
Mối quan hệ giữa góc choãi và vệt bánh không rõ ràng. Hầu hết các trường hợp, tăng góc choãi sẽ làm tăng vệt bánh dù điều này còn phụ thuộc vào càng xe.
Để làm tăng góc choãi mà không làm vệt quá rộng, một vài xe sử dụng chảng ba. Đây là cụm chi tiết liên kết phuộc với cổ lái trên khung thường. Một bộ thường gồm 2 chi tiết có kích thước giống hệt nhau để phuộc trước song song với cổ. Nếu 2 chi tiết này có kích thước khác nhau, chúng sẽ làm phuộc chéo so với cổ.
Khi đã có khung, thông số góc choãi và vệt bánh thì có thể phác thảo sơ bộ dáng xe. Thế giới chopper có vô vàn lựa chọn, không có 2 chiếc chopper nào giống nhau hoàn toàn. Người dựng chopper cần cân nhắc sự thay đổi để xe đạt được sự cân bằng và đặc tính vận hành như yêu cầu.
Bảo Sơn
(tổng hợp)