Ảnh minh họa: Sling. |
Trả lời:
Chào chị,
Thông tin mà chị đưa ra chưa đầy đủ nên tôi không thể khẳng định chắc chắn về trường hợp của chị. Về cơ bản, để tư vấn và xử trí trường hợp này phụ thuộc vào tình trạng nhiễm HIV: cả hai người cùng nhiễm hiv hay chỉ có mình chồng chị, còn chị thì đã làm xét nghiệm HIV chưa? người nhiễm HIV đã có điều trị kháng virus ARV hay chưa, tải lượng virus trong máu như thế nào…
Dựa trên những thông tin ít ỏi chị cung cấp, tôi xin có những chia sẻ như sau:
Nhu cầu có con ở các cặp đôi đang chịu ảnh hưởng của HIV là hoàn toàn chính đáng. Và với sự phát triển của công tác chăm sóc điều trị HIV như hiện nay, nhu cầu này vẫn được đảm bảo nhờ vào những can thiệp y khoa đúng cách. Nhìn chung, việc điều trị nhằm cho cặp đôi sống chung với HIV có thể “làm cha làm mẹ” bao gồm hai nguyên tắc chính:
- Không làm lây nhiễm chéo giữa vợ chồng, cả khi cặp đôi “cùng nhiễm” hay cặp đôi một người nhiễm, một người âm tính.
- Không làm lây nhiễm từ mẹ sang con.
Phương pháp để đạt được hai tiêu chí trên tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, điều kiện sức khỏe, sự lựa chọn của hai vợ chồng và sự hỗ trợ của đội ngũ nhân viên y tế.
Hiện nay có một số phương pháp phổ biến sau:
- Điều trị dự phòng lây truyền mẹ con, tức là can thiệp vào quá trình mang thai không để lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. Bằng chứng cho thấy phương pháp này giúp giảm tỷ lệ lây truyền từ 30% xuống còn 2-3%.
- Thụ tinh nhân tạo, với tinh dịch được rửa sạch tinh tương. Biện pháp này giúp tách tinh trùng ra khỏi tinh tương, vì HIV vốn chỉ có trong tinh tương. Sau đó nhờ vào các phương pháp thụ tinh nhân tạo bơm phần tinh trùng đã xử lý vào tử cung người phụ nữ. Phương pháp này cho tỷ lệ an toàn cao về mặt lây nhiễm HIV, nhưng khả năng thành công trong thụ tinh thấp, và không phải nơi nào cũng làm được.
- Thụ tinh trong ống nghiệm: Với lý luận tương tự như thụ tinh nhân tạo nhưng áp dụng thụ tinh ngoài, cho tinh trùng thụ tinh với noãn đã bóc tách từ buồng trứng của người phụ nữ rồi nuôi cấy mô phôi và đưa trở lại vào tử cung người mẹ. Phương pháp này có xác suất thành công cao hơn nhưng chi phí rất cao.
- Gần đây nhất là một số công bố mới cho ra triển vọng thụ thai trên người có H thông qua quan hệ tình dục ngả âm đạo.
Vào tháng 1/2013, nhóm British HIV Association kết hơp với Expert Advisory Group on AIDS đã công bố kết quả ghi nhận từ một số nghiên cứu về tác động của thuốc kháng virus ARV lên khả năng lây nhiễm HIV. Các nghiên cứu chỉ ra rằng điều trị ARV giúp giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV sang bạn tình âm tính, với tỷ lệ thành công ngang ngửa với việc sử dụng bao cao su, đặc biệt khi tải lượng virus trong máu người bệnh được kiểm soát tốt.
Bên cạnh đó, những kết quả ban đầu cho thấy hiệu quả của điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (Pre exposure Prophylaxis – PrEP), theo đó việc uống thuốc ARV hàng ngày có thể giúp làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nguy cơ cao.
Như vậy, các cặp đôi có H có thể được hướng dẫn kết hợp điều trị ARV với việc quan hệ tình dục hạn chế (quan hệ không bao cao su trong những ngày rụng trứng), với mong đợi sẽ thụ thai mà không làm lây nhiễm HIV sang bạn tình âm tính. Cũng có thể xem xét đến điều trị PrEP trong một số trường hợp.
Trên dây là tóm lược một số phương pháp giúp cặp đôi sống chung với H có thể có con. Các biện pháp này đều có những rủi ro và tỷ lệ thành công nhất định, và cần sự hợp tác giữa bệnh nhân và đội ngũ nhân viên y tế.
Một số hướng đi khác để căn nhà có “tiếng cười trẻ thơ” có thể là sử dụng tinh trùng hiến tặng, xin con nuôi…
Bên cạnh yếu tố y khoa, các cặp đôi sống chung với HIV cũng nên lưu ý đến những yếu tố khác như điều kiện kinh tế, tương lai của đứa trẻ, quan niệm xã hội và sự kỳ thị trong cộng đồng mình sinh sống…Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng nhất định và nên dự phần vào quyết định của hai vợ chồng.
Hai anh chị cũng nên chia sẻ nguyện vọng này với bác sĩ trực tiếp điều trị để có được lời khuyên phù hợp nhất.
Thân ái.
BS Nguyễn Tấn Thủ
Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Sức khỏe Nam giới