suy thận mạn tiến triển qua nhiều giai đoạn trong một thời gian dài, vì vậy nó ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Suy thận là hậu quả của nhiều biến chứng như: đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh cầu thận và ống kẽ thận, bệnh hệ thống… giai đoạn đầu bệnh tiềm ẩn và rất khó phát hiện.
Erythropoietin là chất điều hòa tủy xương, sản xuất tế bào hồng cầu. Do đó khi thận bị suy, chức năng sản xuất erythropoietin của thận bị giảm và thiếu máu sẽ là hậu quả mà bệnh này gặp phải. Thiếu máu trong thời gian dài có thể dẫn đến các biến chứng về tim mạch, đột quỵ, thậm chí gây tử vong cho người bệnh.
Theo thống kê, tỷ lệ suy thận mãn (giai đoạn 3 - 5 của bệnh thận mạn tính ) là 3,1%. Ước tính theo dân số Việt Nam với tỷ lệ này thì có khoảng 7 triệu người lớn bị suy thận mãn. Trên thực tế, con số này có thể cao hơn, và ngày càng gia tăng. Điều này có nghĩa là ngày càng có nhiều bệnh nhân thiếu máu do STM.
Khi bị thiếu máu, bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt, da xanh xao, niêm mạc có màu hồng nhợt nhạt, tim đập nhanh, sức chịu đựng kém và khả năng tập trung suy giảm… Nếu có bệnh lý cơ quan nào khác đi kèm thì các triệu chứng của bệnh lý đó sẽ biểu hiện nặng thêm, ví dụ: thiếu máu có suy tim thì suy tim trở nặng hơn, dễ thiếu máu não…
Điều đáng nói là hầu hết bệnh nhân STM đều không biết mình đang bị thiếu máu ở các mức độ khác nhau, đó là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng bệnh trở nên nặng hơn. Vì vậy việc điều trị thiếu máu cho những bệnh nhân này, đặc biệt ở giai đoạn sớm là một trong những vấn đề cần được quan tâm và là mục tiêu hàng đầu của các thầy thuốc.
Điều trị thiếu máu giai đoạn sớm giúp cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân STM. |
Trước đây điều trị thiếu máu do suy thận mạn thường được xử lý bằng truyền máu, nhưng có rất nhiều tác hại như: nguy cơ nhiễm trùng, lây nhiễm HIV, viêm gan, tăng sự mẫn cảm của người ghép thận; ứ đọng sắt (chứng nhiễm sắc tố sắt)...
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu chuyên sâu đã cho phép tạo ra những phương pháp mới hiệu quả hơn trong điều trị thiếu máu do STM. Một trong số đó là sử dụng Methoxy polyethylene glycol-epoetin beta (Micera). Thuốc này được chỉ định điều trị thiếu máu do STM, đặc biệt thích hợp ở giai đoạn sớm. Methoxy polyethylene glycol-epoetin beta có thể tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da, có tác dụng kích thích và tương tác với tế bào tiền thân tạo hồng cầu để tăng sản xuất tế bào hồng cầu cho bệnh nhân.
Điểm mới và tiện lợi của Mircera là ngoài lợi ích duy trì độ ổn định Hemoglobin mục tiêu tốt hơn, bệnh nhân chỉ cần tiêm mỗi tháng một lần nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị cho bệnh nhân, giúp người bệnh tiết kiệm được thời gian đi lại, thời gian điều trị, tâm lý và cả sức khỏe.
Ngoài ra, để phòng tránh cũng như hạn chế hậu quả do thiếu máu gây ra, người bệnh cần ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, nhất là dưỡng chất tạo máu, đồng thời phải điều trị tình trạng nhiễm trùng, viêm nhiễm, mất máu (nếu có)… song song với bù đắp thiếu hụt chất erythropoietin nội sinh bằng thuốc kích thích tạo máu.
PGS.TS.BSC. Đinh Thị Kim Dung
Trưởng khoa Nội Thận Tiết niệu – BV Bạch Mai Hà Nội.
SG002816