Mạc Cửu là ai?
Mạc Cửu (1655 - 1735), là một vị tướng nhà Minh, quê gốc ở Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc).
Do không thuần phục nhà Thanh, ông đã mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, đoàn người của Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan.
Trong một tài liệu cổ của Mạc thị gia phả chép rằng: “Vào năm Tân Hợi (1671), Mạc Cửu vượt biển đi về phương Nam, lấy đất khách làm quê. Ông dùng tiền của hối lộ các ái phi và các quan, nhờ nói giùm với Quốc vương Chân Lạp cho mình ra đất Mang Khảm - Sài Mạt - Hà Tiên, chiêu tập khách buôn tứ phương để mưu lợi cho đất nước.
Quốc vương Chân Lạp đã bằng lòng, cho ông làm Ốc Nha (quan trấn thủ). Từ đó, Mạc Cửu quy tụ khách buôn các nước, thuyền bè tấp nập kéo tới.”
Công lao to lớn của Mạc Cửu
Mạc Cửu đã lập ra các ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Lúc này, Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui.
Ông còn lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển, thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán, tức người Khmer), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo).
Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc.
Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Sau những lần giao tranh với Xiêm La, Chân Lạp bị suy yếu nhiều, trong khi chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang trở nên thịnh vượng, Mạc Cửu quyết định xin thần phục, nguyện dâng đất đai cơ đồ xây dựng và xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn.
Về sau, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành trấn Hà Tiên.
Đền thờ họ Mạc - Dòng họ trung liệt
Khu di tích đền thờ họ Mạc gồm phần đền thờ dòng họ Mạc và phần lăng mộ.
Đền thờ nằm ở chân núi Bình San, được nhà Nguyễn cho xây dựng để tưởng nhớ công ơn khai phá đất Hà Tiên của dòng họ Mạc mà đứng đầu là Mạc Cửu. Trước đền thờ là 2 ao lớn nở đầy hoa sen mà trước kia Mạc Cửu đã cho đào để lấy nước ngọt cho dân trong vùng dùng trong mùa khô hạn.
Ở hai bên cổng đền thờ là 2 câu đối bằng chữ Hán Nôm do nhà Nguyễn ban tặng:
Nhất môn trung nghĩa gia thinh trọng / Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh
Tạm dịch là: Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ / Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu
Bên trong cổng có một khoảng sân rộng cùng nhiều cây xanh quanh năm xào xạc tạo cho không gian đền thờ lúc nào cũng yên tĩnh, xanh mát và trầm mặc.
Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước ông Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông.
Bên trong chính điện, ở giữa thờ ngai vị của ông Mạc Cửu và xung quanh là các hậu duệ của ông (những người dòng họ Mạc được coi như những tiểu vương tại Hà Tiên).
Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ.
Lăng mộ Mạc Cửu - khoan thai giữa núi Bình San
Từ đền thờ quay ra, phía tay trái sẽ có bảng chỉ dẫn lên lăng mộ Mạc Cửu cùng dòng họ nhà Mạc.
Đi theo một con đường bậc thang lên núi Bình San, du khách sẽ tới phần lăng mộ với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc, khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc.
Lăng mộ ông Mạc Cửu nằm ở vị trí cao nhất trong khu 1, có hình bán nguyệt và được khoét sâu vào núi. Mộ được xây theo thuật phong thủy, lưng tựa vào núi, mặt quay ra biển và ở 2 bên mộ có 2 vị tướng bằng đá đứng canh giữ.
Khi xây lăng mộ cho cha, con trai trưởng của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích đã mang đá ở bên Malaysia về để lát.
Nằm trên đỉnh núi Bình San là đàn xã tắc, nơi hành lễ cúng tế trời đất của Hà Tiên xưa và nay. Nền đàn xã tắc có hình bát quái lớn màu đỏ, ở giữa màu đen, tâm vàng, trên đặt 1 lư hương lớn bằng đồng.
Núi Bình San đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là thắng cảnh quốc gia vào 21/1/1989.