- Công nghiệp ô tô Thái Lan bắt đầu manh nha từ năm 1960. Đến năm 2012, Thái Lan trở thành nhà sản xuất ô tô lớn nhất Đông Nam Á, đóng góp 10% GDP nước này.
- Ngành công nghiệp ô tô Thái Lan phát triển qua 5 giai đoạn chính từ sửa chữa xe nhập khẩu, lắp ráp xe, sản xuất phụ tùng xe tới R&D.
Định hướng toàn ngành rõ ràng
Năm 1960, chính phủ Thái Lan bắt đầu ban hành chính sách thay thế nhập khẩu để thúc đẩy ngành ô tô nội địa. Năm 1961, công ty ô tô đầu tiên được thành lập có tên Anglo - Thai Motor được thành lập trên cơ sở liên doanh giữa hãng Ford của Anh và Thai Motor Industry, bắt đầu lắp ráp nội địa. Thị trường tiêu thụ thời điểm này khá nhỏ với chỉ hơn 3.200 xe khách và hơn 520 xe khác được bán vào năm 1961. Đến năm 1970, lắp ráp nội địa tăng đến con số trên 10.600 xe. Sau 10 năm, số xe lắp ráp của Thái vẫn chiếm một nửa thị trường.
Tăng trưởng công nghiệp ô tô Thái Lan giai đoạn 2007-2012. |
Giai đoạn thứ nhất tập trung vào việc sửa chữa đơn thuần những chiếc xe nhập khẩu nguyên chiếc từ nước ngoài CBU (Complete Build-up Unit).
Để thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô phát triển, Thái Lan chia khu vực ưu tiên thành 3 vùng: Vùng 1, vùng 2, vùng 3.
Đối với những nhà sản xuất ô tô, điều kiện để được hưởng ưu đãi bao gồm:
- Sản lượng thực tế không thấp hơn 100.000 chiếc/năm trong bất kỳ năm nào suốt 5 năm đầu tiên hoạt động.
- Tất cả sản phẩm phải được dựa trên cùng một nền tảng được chấp nhận bởi Bộ đầu tư Thái Lan.
- Tổng vốn đầu tư trong 5 năm đầu miễn thuế doanh nghiệp không được nhỏ hơn 15 tỷ baht, không bao gồm chi phí đất đai, vốn lưu động.
- Kế hoạch đầu tư cho sản xuất phụ tùng, linh kiện phải được đệ trình và chấp nhận bởi Bộ đầu tư.
Đổi lại nhà sản xuất, lắp ráp ô tô sẽ được các nghĩa vụ nhập khẩu máy móc bất kể vùng nào, miễn thuế doanh nghiệp 5 năm và những quyền lợi khác theo quyết định số 1/2543 ký ngày 01/08/2000. Năm 2012, Toyota là nhà sản xuất, lắp ráp lớn nhất tại Thái Lan, chiếm 35% thị phần.
Đối với nhà sản xuất phụ tùng, Thái Lan cũng chia rõ chính sách gồm 2 nhóm: phụ tùng thông thường và công nghệ cao. Những nhà sản xuất phụ tùng thông thường được miễn nghĩa vụ nhập khẩu máy móc, miễn thuế doanh nghiệp với vùng 1 là 3 năm, vùng 2 là 3-7 năm, vùng 3 là 8 năm. Với nhà sản xuất phụ tùng công nghệ cao như ABS, hệ thống điều hòa không khí cho ô tô,… được miễn nghĩa vụ nhập khẩu với máy móc, và 8 năm thuế doanh nghiệp tại tất các vùng.
Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ của Thái Lan có tới 709 công ty cấp 1 và 1.700 công ty cấp 2, cấp 3 tạo việc làm cho khoảng 100.000 người. Các nhà máy sản xuất phụ tùng tại Thái cũng tạo ra việc làm cho 450.000 người.
Những chính sách hỗ trợ xuất sắc
Một trong những yếu tố khiến các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào công nghiệp ô tô Thái Lan chính là chính sách ổn định, tạo điều kiện gia nhập thị trường như ưu đãi thuế, miễn thuế không chỉ với ngành sản xuất mà còn đối với hoạt động nghiên cứu phát triển.
Chính phủ Thái Lan còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài mang những chuyên gia, kỹ sư và nhân viên vào nước này với chính sách visa linh hoạt. Nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp ô tô Thái Lan cũng có kỹ năng cao nhất so với các nước khác trong khu vực.
Để trở thành trung tâm sản xuất ô tô lớn nhất khu vực, Thái Lan không chỉ xây dựng tốt chính sách và hạ tầng cho đầu vào mà còn cung cấp cơ sở hạ tầng xuất sắc phục vụ cho vận tải. Mạng lưới giao thông tại Thái Lan xuyên suốt từ đông- tây, nam- bắc, dễ dàng kết nối tới các nước khác trong khu vực, sân bay quốc tế Bangkok và cảng biển nước sâu Laem Chabang, cùng hệ thống tầu hỏa kết nối thuận tiện khắp đất nước. Điều này khiến cho các khâu xuất nhập khẩu trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.