Theo truyền thống xưa, ngày 30 Tết, con cháu sẽ làm lễ cúng mời Tổ tiên về dự 3 ngày Tết. Những ngày đó, các bậc gia thần, tổ tiên luôn ngự trên bàn thờ. Do vậy, đèn hương không bao giờ được tắt, các đồ dâng cúng như hoa quả, mâm ngũ quả và bánh kẹo phải đợi đến “ngày hóa vàng” mới được hạ xuống.
Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Vịnh - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ giáo dục, bữa cơm kết thúc dịp năm mới vô cùng quan trọng đối với người Việt nên mâm cơm cúng hóa vàng cũng phải đầy đủ như mâm cỗ chính của ngày Tết.
Mâm cơm cúng hóa vàng phải đầy đủ như mâm cỗ mặn chính của ngày Tết
“Mâm cỗ hóa vàng thường được gia chủ cúng vào ngày mùng 3 Tết. Đây chính là bữa cỗ mặn cuối cùng có tính nghi lễ thờ cúng Tổ tiên. Trong mâm cơm, phải có đầy đủ gà, các món luộc, xào, canh, miến, rượu và mâm ngũ quả, bánh kẹo, cau trầu. Đặc biệt, vàng mã, tiền âm phải được chuẩn bị chu đáo để Tổ tiên có đủ lệ phí về trời”, tiến sĩ Nguyễn Văn Vịnh cho biết.
Ngày nay, việc chọn làm lễ hóa vàng tùy thuộc vào hoàn cảnh, thời gian của mỗi gia đình. “Có những gia đình con cái tập trung đông đủ vào mùng 2 thì họ làm lễ hóa vàng, nhưng cũng có gia đình bận rộn mà tới mùng 5 mới hóa vàng được. Do vậy, không bắt buộc phải làm lễ hóa vàng vào một ngưỡng cụ thể nào. Trong khoảng từ mùng 3 tới mùng 10 Tết gia chủ có thể làm lễ hóa vàng”, tiến sĩ Vịnh chỉ rõ khoảng thời gian gia chủ nên làm cơm cúng hóa vàng.
Tiến sĩ cho biết thêm, sau khi cúng lễ, gia chủ sẽ tiến hàng đốt phần tiền, vàng. Phần tiến vàng của gia thần sẽ được hóa trước, tiền vàng và đồ dùng của Tổ tiên sẽ hóa sau. Từ xa xưa, tại nơi đốt hóa vàng người ta đặt vài cây mía dài để làm “phương tiện” cho các linh hồn mang hàng hóa theo.