- Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) vừa công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII ) năm 2015. Xin ông cho biết vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng này?
- Trong báo cáo GII năm 2015, Việt Nam xếp thứ 52 trên 141 quốc gia/nền kinh tế, tăng 19 bậc so với năm trước. Việc thăng hạng có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đây là đánh giá khách quan của các tổ chức và trường đại học uy tín trên thế giới.
Tại khu vực Đông Nam Á, chỉ số GII của Việt Nam xếp thứ 3 sau Singapore (số 7 trong nhóm dẫn đầu) và Malaysia (số 32) và xếp trên Thái Lan (số 55). Chỉ số GII của Việt Nam tăng chủ yếu do các tiểu chỉ số đầu ra được đánh giá cao (hạng 39, Thái Lan hạng 62) trong khi tiểu chỉ số đầu vào của Việt Nam thấp (hạng 78).
Viện trưởng Viện chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ Tạ Doãn Trịnh. |
- Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu được đánh giá, xếp hạng dựa trên những tiêu chí nào, thưa ông?
- Để đưa ra được đánh giá, các tổ chức này đã dựa trên số liệu của 79 tiêu chí được thống kê từ các quốc gia. Trong đó, có nhiều tiêu chí liên quan đến đầu vào, đầu ra của khoa học và công nghệ, từ thể chế, nhân lực, hạ tầng cho tới đầu tư rồi các sản phẩm khoa học được công bố cũng như kết quả khoa học được ứng dụng. Nhiều người cho rằng chỉ số này thể hiện trình độ phát triển công nghệ của một quốc gia vì các tiêu chí cũng thể hiện tương đối tổng hợp.
Nhiều năm trước, chúng ta vẫn phải loay hoay ở trong thứ hạng trên 70 nhưng bắt đầu từ năm 2013 đã bắt đầu có chiều hướng tốt lên. Nếu như năm 2013 chúng ta xếp hạng thứ 76 thì năm 2014 tăng lên 71 và năm nay là 52.
- Việc Việt Nam tăng 19 bậc trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới toàn cầu có ý nghĩa như thế nào?
- Kết quả đánh giá của WIPO và các trường đại học danh tiếng ghi nhận sự nỗ lực của Việt Nam khi Luật Khoa học & Công nghệ có hiệu lực, bước đầu đem lại sức sáng tạo, sức sống mới cho khoa học công nghệ Việt Nam. Có thể thấy, Luật có tác dụng rất lớn với 3 trụ cột là đổi mới phương thức đầu tư, cơ chế tài chính và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học công nghệ.
Các nhà khoa học đánh giá, Luật mang lại nhiều chuyển biến tốt, đặc biệt là các sản phẩm khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh. Công bố quốc tế năm 2014 của Việt Nam đã vượt ngưỡng 2.600 bài viết trên tạp chí ISI. Số lượng sáng chế cũng tăng lên đáng kể.
Khoa học Việt Nam đã có sản phẩm lên vị trí hàng đầu trong khu vực và tương xứng với trình độ quốc tế. Có thể kể ra một số lĩnh vực như sản xuất vắcxin, cơ khí chế tạo (sản phẩm thiết bị nâng hạ siêu trường - siêu trọng, giàn khoan dầu khí sản xuất cho Việt Nam và xuất khẩu sang Ấn Độ, tàu tên lửa tấn công nhanh, tàu trọng tải lớn…). Những sản phẩm này đều nhờ vào thành tựu nghiên cứu làm chủ khoa học và công nghệ của Việt Nam trong mấy năm qua.
Một số tạp chí của Việt Nam cũng đã bắt đầu đặt chân vào hệ thống cơ sở dữ liệu uy tín của thế giới như Scopus. Chúng ta cũng đang đầu tư mạnh cho toán học, vật lý từ nay đến năm 2020. Những tạp chí chuyên ngành của Toán và Vật lý sẽ đi đầu trong việc có vị trí trong cơ sở dữ liệu của Scopus và xa hơn nữa là Thomson.
Với kết quả như trên chúng ta có niềm tin để phấn đấu duy trì Việt Nam trong tốp 3 nhưng khoảng cách với nước thứ 2 là Malaysia sẽ được rút ngắn một cách đáng kể (Malaysia đang xếp thứ 32). Để rút ngắn khoảng cách này chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu nhưng với tốc độ như thời gian qua thì đến năm 2020 Việt Nam có thể củng cố được vị trí số 3 của ASEAN với thứ hạng cao hơn.
- Theo đánh giá của WIPO, tiểu chỉ số đầu vào của Việt Nam vẫn bị xếp hạng thấp, nếu không có cải thiện thì thứ hạng của Việt Nam sẽ bị tụt. Ý kiến của Viện trưởng về đánh giá này?
- Nhóm tiểu chỉ số đầu vào bao gồm: thể chế, vốn con người và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, sự phát triển của thị trường, môi trường kinh doanh. Những yếu tố đầu vào đánh giá rất dễ vì được thể hiện thông qua hệ thống cơ chế chính sách, nguồn lực của xã hội, đầu tư của nhà nước cho khoa học và công nghệ. Tuy nhiên các tiểu chỉ số đầu ra thì khó đánh giá hơn vì có độ trễ. Chu kỳ của các nhiệm vụ, đề tài nghiên cứu cũng không thể ngắn hơn 2 hoặc 3 năm được. Hôm nay chúng ta tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách nhưng phải 2 đến 3 năm sau mới thấy kết quả.
Những năm vừa qua Chính phủ đã thành lập Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, thành lập Quỹ với vốn điều lệ lên tới 1.000 tỉ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp tạo ra sản phẩm mới. Nếu Quỹ này hoạt động từ 2 - 3 năm trước đây chắc chắn chúng ta sẽ có thứ hạng tốt hơn.
Ngoài ra, việc hỗ trợ cho các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp còn thông qua nhiều chương trình mà Bộ Khoa học đang triển khai như phát triển sản phẩm quốc gia; phát triển công nghệ cao; nâng cao năng suất chất lượng của hàng hóa doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020; hỗ trợ cho doanh nghiệp KH&CN; ...
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, những chính sách nguồn lực đã và đang dành cho ngành khoa học và công nghệ thì chắc chắn những chỉ số đầu vào sẽ có thay đổi tích cực hơn.
Võ Hải thực hiện